Saturday, October 24, 2009

I. M. Gelfand



Giáo sư I.M. Gelfand, một trong những người khổng lồ của toán học thế kỷ 20 đã qua đời, hôm thứ hai, 5/10/2009, tại bệnh viện của Trường đại học Robert Wood Johnson, bang New Jersey, Hoa kỳ ở tuổi 96. Ông là tác giả của hơn 800 bài báo, 30 cuốn sách trên rất nhiều lĩnh vực khác nhau như vành định chuẩn giao hoán, lý thuyết biểu diễn, lý thuyết các hàm siêu hình học, phương trình đạo hàm riêng, … và cả trong sinh học lý thuyết. Các công trình của ông đã mở đường cho các nhà tư tưởng khác trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ vật lý đến xử lý ảnh y học.

Gelfand không đạt tới vinh quang bằng cách tấn công vào các bài toán nổi tiếng, hóc búa. Thay vào đó, ông là người tiên phong trong những lĩnh vực còn hoang sơ, đặt nền móng cho nó, sáng tạo ra các công cụ cho người khác sử dụng.

Người ta thường so sánh ông với các nhà toán học vĩ đại như Euler, Hilbert hay Poincaré. V.I. Arnold thường đối lập cách làm toán của Gelfand với Andrei Kolmorogov (thày của Gelfand) như sau: “Giả sử cả hai người cùng đi đến một miền đất hoang vu đầy núi. Kolmogorov sẽ ngay lập tức trèo lên đỉnh núi cao nhất, trong khi Gelfand sẽ bắt tay vào việc làm đường”.

Nhận xét về ảnh hưởng của công việc của Gelfand trong các lĩnh vực khác, Andrei Zelevinsky, giáo sư toán tại trường đại hoc Northeastern nói: “Các công trình mang tính tiên phong của Gelfand trong một lĩnh vực hết sức trừu tượng là lý thuyết biểu diễn hóa ra lại đóng vai trò quyết định đối với các nhà vật lý làm việc trong lĩnh vực cơ học lượng tử. Các công việc sau này của ông trong một lĩnh vực khác không chỉ trừu tượng mà còn khá lờ mờ, hình học tích phân, ngày nay lại được dùng trong việc chuyển đổi các hình ảnh thô được quét thông qua các máy chụp ảnh cộng hưởng từ hay chụp cắt lớp trong y học, thành các hình ảnh 3 chiều rõ ràng. Công cụ có yếu tố quyết định này đòi hỏi phải có một kiến thức toán học sâu sắc”.
“Ông có lẽ là con người vĩ đại cuối cùng làm việc trong hầu hết mọi lĩnh vực của Toán học”.

Ông cũng là người luôn quan tâm dìu dắt các nhà toán học trẻ, coi họ như học trò hay là những người cộng tác của minh. Nhiều người trong số họ về sau này cũng trở thành các nhà toán học lỗi lạc. Ở trường đại học tổng hợp Moscow, nơi ông dạy học trong nhiều thập kỷ, ông đã điều hành một seminar huyền thoại – Seminar Gelfand – sinh hoạt hàng tuần, ở đó thay vì các báo cáo được mời, được chuẩn bị trước thì nhiều khi đã trở thành những buổi thuyết trình toán “tùy hứng”. Vladimir Retakh, giáo sư toán tại trường Rutgers, nơi Gelfand làm việc kể từ khi sang Mỹ kể: “Đề tài cho một buổi sinh hoạt của Seminar Gelfand thường không được biết trước cho tới tận khi buổi seminar bắt đầu. Thường là qua các trao đổi trước buổi seminar, Gelfand sẽ quyết định chọn một diễn giả “tùy hứng” và một đề tài “tùy hứng”. Các thành viên seminar thường nói đùa rằng người ta không thể biết chắc chắn rằng cái gì sẽ được trình bày ở seminar, nhưng người ta có thể biết chắc chắn điều gì sẽ không được trình bày tại seminar – đó là những báo cáo đã được thông báo trước.”
Đối với diễn giả, đó sẽ là vài tiếng đồng hồ khó khăn, liên tục bị ngắt quãng bới các câu hỏi, bình luận, nhận xét và thậm chí đôi khi là cắt cụt của Gelfand. Ông không phải là người lịch sự, tinh tế trong dối xử. Nhưng đối với diễn giả và cả người tham dự, mỗi buổi seminar Gelfand đều đem lại những cài nhìn hết sức có giá trị vào các ý tưởng mà Gelfand đang nung nấu.

Ông bắt đầu một seminar thứ hai, về sinh học, sau khi Aleksandre, một người con trai của ông bị mắc bệnh bạch cầu. Các nhà sinh vật ở Moscow rất thích tới tham dự, làm báo cáo tại seminar này và được nghe những ý kiến hết sức khác thường tại đây. Aleksandre chịu thua căn bệnh hiểm nghèo, nhưng Gelfand vẫn tiếp tục seminar của ông.

Gelfand sinh ở Ukraina, gần Odessa. Ông không học hết phổ thông và cũng chưa hề bao giờ là sinh viên đại học. Ông lên Moscow vào khoảng năm 16, 17 tuổi và làm nhiều công việc khác nhau. Vốn ham mê toán học, ông vẫn đi dự các seminar và đến năm 19 tuổi ông được nhận thẳng vào làm nghiên cứu sinh tại Mech-Math, trường đại học tổng hợp Moscow dưới sự hướng dẫn của Andrei Kolmogorov. Ông bảo vệ phó tiến sỹ năm 1935 và bảo vệ tiến sỹ khoa học 5 năm sau đó. Ông là viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Liên xô từ năm 1953 và trở thành viện sỹ chính thức năm 1984. Ông tới Mỹ năm 1989 và từ năm 1990 làm giáo sư tai Rutgers, nơi ông đã mở lại seminar của mình với quy mô nhỏ hơn thời kỳ ở Moscow trong vài năm.

Với những đóng góp to lớn của mình cho toán học, ông đã được nhận nhiều giải thưởng lớn: Giải thưởng nhà nước Liên xô 1953, giải thưởng Lenin 1956, giải thưởng Wolf 1978, giải thưởng Kyoto 1989, giải thưởng MacArthur 1994. Năm 2005 ông được nhận giải thưởng Steele dành cho đóng góp suốt đời của Hội Toán học Mỹ. Ông được nhận giải này vì “đã có những ảnh hưởng sâu sắc trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu thông qua các kết quả của ông cũng như thông qua sự cộng tác với các nhà toán học khác, kể cả các sinh viên”.

Gelfand luôn tìm cách dạy không chỉ các quy tắc của toán học mà còn dạy cả vẻ đẹp và sự chính xác của môn khoa học này. Ông thường nói: “Toán học chỉ là một cách suy nghĩ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng bao giờ nên tách toán học ra khỏi cuộc sống. Bằng cách đó bạn có thể giảng một cách dễ dàng về phân số cho những kẻ say rượu bét nhè. Nếu bạn hỏi họ 2/3 với 3/5 số nào lớn hơn thì họ sẽ không trả lời được nhưng nếu hỏi họ 2 chai vodka cho 3 người và 3 chai vodka cho 5 người đằng nào có lợi hơn thì họ sẽ trả lời đúng ngay”.

Monday, May 25, 2009

IHES - Vườn ươm đặc biệt của các thiên tài khoa học





(Nhân việc Việt Nam đang dự định thành lập Viện nghiên cứu cao cấp, xin dịch bài báo “L'IHES, pépinière atypique de génies scientifiques” đăng trên báo Le Figaro, số ra ngày 27/3, vào dịp Giáo sư Mikhail Gromov của Viện IHES, nhà toán học Pháp gốc Nga, được trao tặng giải Abel.)

Là một hiện tượng khá hiếm hoi ở Pháp, Viện nghiên cứu cao cấp IHES là một viện tư nhân, có định hướng nghiên cứu toán học và vật lý lý thuyết ở trình độ cao. Viện được thành lập năm 1958 bởi một doanh nhân mà sau này trở thành nhà toán học, ông Léon Motchan. Mục tiêu lúc bấy giờ là lập ra một Viện nghiên cứu của Pháp, tương đương với Viện nghiên cứu cao cấp Priceton của Mỹ, nơi đào tạo ra những nhà khoa học vĩ đại nhất như Albert Einstein. Motchan đã thành công trong việc nhận được sự ủng hộ của Robert Oppenheimer, cha đẻ của bom nguyên tử Mỹ nhưng sau đó đã chống lại bom khinh khí, người đã kế tục Albert Eistein đứng đẩu Viện Princeton.

Viện IHES tập hợp được các nhà nghiên cứu xuất sắc nhất thế giới, và hiện nay chỉ có 5 giáo sư trong biên chế cố định (permanent): hai nhà vật lý Thibault Damour và Nikita Nekrasov và ba nhà toán học Maxim Kontsevich, Laurent Lafforgue và Mikhail Gromov. (Trong số 5 người này thì có 3 người gốc Nga). Ràng buộc duy nhất đối với các giáo sư này là họ phải có mặt làm việc tại IHES ít nhất 6 tháng mỗi năm. Ngân sách hàng năm của viện IHES vào khoảng 6 triệu Euros, trong đó non một nửa (2,8 triệu) là do Bộ nghiên cứu khoa học Pháp rót vào. Các nước khác, chủ yếu là các nước châu Âu đóng góp khoảng 20% ngân sách. Có thể kể ra đây sự đóng góp của Thủ tướng Bỉ, Viện hàn lâm khoa hoc Hà Lan, Bộ Nghiên cứu khoa học Anh. Các nước như Đức, Mỹ Trung Quốc, Nhật Bản cũng có đóng góp tài chính cho IHES.

Các công ty lớn như Suez, Schlumberger, EDF, France Télécom và CEA (Commissariat à l'énergie atomique) đóng góp khoảng 5% ngân sách hàng năm. Phần ngân sách còn lại là do các nguồn riêng của IHES. Một số cá nhân cũng có những tài trợ cho IHES, thường là 50, 100 hoặc 200 euros. Nhà thiết kế Philippe Starck, một fan hâm mộ nhà vật lý Thibault Damour, đã tặng toàn bộ thiết kế trụ sở hội đồng đồng quản trị. Một nhà toán học trước đây nay là quản lý của một quỹ đầu tư đóng góp cho IHES 9 triệu euros.




Tất cả có khoảng bốn mươi người ăn lương của viện IHES. Trước hết là các giáo sư. Lương trung bình của họ là 78.000 euros mỗi năm (sao khi đã trừ thuế), tức là tương đương với lương của một giáo sư ở trường đại học danh giá của Pháp là Collège de France. Tuy mức lương này đã khá là cao, nhưng thực tế các giáo sư này còn có thể kiếm được gấp đôi, tức là khoảng 150.000 euros mỗi năm nếu trong sáu tháng còn lại họ đi dạy tại một đại học lớn ở Mỹ. Ngoài năm giáo sư này còn có những giáo sư mời, chẳng hạn như Alain Connes, giải thưởng Fields năm 1982. Lương của ông là do trường Collège de France chi trả. Tại Collège de France, ông giữ chức chủ nhiệm ban giải tích và hình học. Các học sinh sau tiến sỹ (post-doctorant) tại IHES cũng được Viện cấp chỗ ở.

Mô hình độc đáo này của viện IHES đã trở thành ý tưởng cho nhiều ngành khác, đặc biệt là các ngành xã hội và nhân văn. Đó là trường hợp của Viện nghiên cứu cao cấp tại Nantes, thành lập bởi Alain Soupiaut, một chuyên gia về luật lao động. Viện này mới được khánh thành tháng Hai năm ngoái. Mục đích của nó là thiết lập nên một cộng đồng các nhà khoa học. Một dự án khác cũng đang được nghiên cứu là dự án của nhà xã hội học kiêm phó thị trưởng Paris, ông Jean-Louis Missika.


Một vài thông tin bổ sung về các giáo sư chính thức tại viện IHES :
Trong số 5 giáo sư chính thức đã có 3 người gốc Nga : Mikail Gromov, Maxim Kontsevich và Nikita Nekrasov. Cả 5 giáo sư này đều đã giành được những giải thưởng cao quý nhất trong lĩnh vực của mình.
Mikhail Gromov
- Giải thưởng Abel 2009
- Giải thưởng Wolf, 1993
- Giải thưởng Balzan, 1999
- Giải thưởng Kyoto, 2002
- Giải thưởng Nemmers 2004
- Giải thưởng Bolyai 2005
- Giải thưởng Steel của Hội Toán học Mỹ, 1997
Thibault Damour
- Giải thưởng Mergier-Bourdeix của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp
- Huân chương Einstein 1996
- Huân chương Cecil F. Powell 2005

Nikita Nekrasov
- Giải thưởng Hermann Weyl 2004
- Giải thưởng Jacques Hebrand 2004

Maxim Kontsevich
- Giải thưởng châu Âu của thành phố Paris 1992
- Giải thưởng Henri Poincaré 1997
- Huân chương Fields 1998
- Giải thưởng Crafoord 2008

Laurent Lafforgue
- Giải thưởng Jacques Herbrand 2001
- Huân chương Fields 2002
- Giải thưởng nghiên cứu của Viện Clay


Đây là Trung tâm hội nghị mang tên Marilyn & James Simons của Viện IHES, nơi diễn ra các hội nghị quốc tế, các bài giảng, các báo cáo colloquium quan trọng. Tại tiền sảnh của Trung tâm này treo ảnh của một số nhà toán học, nhà vật lý đã có những đóng góp quan trọng trong khoa học trong thời gian làm việc tại IHES. Bên cạnh những tên tuổi lừng danh như A. Grothendieck, M. Atiyah, A. Connes, … con có ảnh của một nhà toán học trẻ Việt Nam, anh Ngô Bảo Châu.

Paris 2009

(Đặt gạch đã, viết sau)